Kiến Thức Chia Sẽ Của thầy GS TS: Nguyễn Viết Trung về các tên gọi Bản Quá Độ, Bản giảm tải , Sàn giảm tải, Về nghiên cứu của Bộ GTVT
bản quá độ, bản giảm tải, sàn giảm tải ( cứ tạm gọi như vậy, sau sẽ
bàn lại)1- Cái tên bản quá độ :- đầu tiên là dịch từ tiếng Nga, hồi đó ai đi học từ bé cũng biết khái
niệm về thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH, có lẽ vì thế mà tính từ ” quá
độ” được dùng rất phổ biến và mang dáng vẻ thời thượng, trang trọng.
Từ vựng của ngành KH xã hội-chính trị lấn sang cả từ vựng kỹ thuật,
và cái tên “bản quá độ” hầu như không ai có ý kiến gì thêm,
– Mãi sau này, khoảng từ 1990, sách tiếng Anh vào nhiều, tiếng Nga mất
địa vị thống trị trong làng cầu đường, dịch chữ “transfering slab”
cũng thấy thuật ngữ “bản quá độ” là tạm chấp nhận được. Lúc đó cấu tạo
BQD vẫn là 1 đầu gối chốt lên đỉnh tường trước của Mố, (coi như sơ đồ
gối cố định) một đầu kia của bản tỳ lên dầm móng chôn trong nền đường
theo hướng ngang cầu, bên dưới dầm này có móng đá xếp,( coi như sơ đồ
gối đàn hồi). Nhưng cái bản mỏng quá nên sẽ bị uốn cong võng xuống và
tỳ lên đất một đoạn sát với phần gối đàn hồi, đoạn này được giả định
dài bằng 1/3 chiều dài bản quá độ và coi là sơ đồ dầm trên nền đàn
hồi. Nhiều kỹ sư đã đơn giản hóa, bỏ qua đoạn này trong tính toán mà
chỉ tính là sơ đồ dầm giản đơn 1 đầu gối cố định, 1 đầu gối đàn hồi.
Rồi cái độ đàn hồi bằng bao nhiêu thì lại giả định tùy ý mỗi người.
Còn lại đa sô chẳng tính gì cả, cho dài 3 m ( khoảng những năm 60-80)
rồi dài đến 6m ( khoảng những năm 90-đến nay). Độ dày của BQD thì xưa
là 20 cm, sau đến 25 cm , nay đến 30-35 cm. tùy người thiết kế.
– Khoảng 15 năm về trước, các bản vẽ xuất phát từ TEDI dùng thuật ngữ
” bản vượt” BV thay cho thuật ngữ ” bản quá độ. BQD. Cấu taọ cũng có
khác đi, cụ thể là bên dưới đáy BV này có móng đá hộc, rồi đá dăm suốt
chiều dài 6m. Cái dầm kê bị bỏ di, gối đá của nó cũng bị bỏ đi . mà
thay bằng 1 cái gờ nhô xuống dưới ở cuối BV, đại thể cũng coi là 1
dạng dầm kê.
– Nhưng xin lưu ý rằng từ 1985, trong “Sổ tay cầu cống nhỏ”- tiếng Nga
– đã vẽ BQD trên đường Quốc lộ có 3 nhịp, mỗi nhịp 6 m liên tiếp nhau
chôn trong nền đường sau mố hoặc để nổi gần sát mặt đường (có trải
nhựa lên trên bản BTCT). Sách tiếng Tầu thì đã vẽ BQD dài 2-3 nhịp,
mỗi nhịp 3-4 m tương tự như trên.
Kể lại thế để xin bà con đừng vội chê hiệu quả của BQD. Các nước tiên
tiến vẫn đang áp dụng mà. Vấn đề là tại sao ở xứ ta chưa tốt như mong
ứơc thì có cả lỗi thiết kế và lỗi thi công chứ.2- Về cái tên Bản giảm tải
– sách tiếng Nga từ xưa đã vẽ BGT ngàm cứng vào thân tường trước của
Mố (chứ không phải gối chốt ở đỉnh tường đầu của Mố như Bản quá độ).
Có thể làm 2-3 Bản giảm tải ở các cao độ khác nhau nếu chiều cao Mố
quá cao. Mục tiêu là giảm áp lực ngang do hoạt tải. Hơn nữa, phần
trọng lượng đất và tải trọng xe thẳng đứng bên trên chiều dài của BGT
sẽ tạo ra Momen quay ngược về phía nền đường, làm tăng ổn định lật cho
tường Mố.Độ đàn hồi bên dưới bánh xe của đoạn chiều dài BGT cũng được
cải thiện và góp phần cho xe ra vào cầu êm thuận hơn (giống như tác
dụng của Bản quá độ.
– Vậy mà loại BGT này ít được thiết kế ở VN, còn bản vẽ của Nga thì có
Mố đưpợc làm cả 2 thứ là BQD va BGT.
3- Về cái tên Sàn giảm tải
– Có lẽ tên này được đẻ ra từ dự án Đường xuyên Á (Xin lỗi bà con, nếu
tôi nói sai). Khi đó các giải pháp bấc thấm và cọc cát đều phải chờ
quá lâu mới rải BT nhựa được. Mà vào lúc đó chưa có Vụ PM18. Tinh thần
đánh nhanh, thắng nhanh cao lắm, đã là kỹ sư cầu đường thì hầu như ai
cũng muốn đẩy nhanh tiến độ, Điều này cũng phù hợp yêu càu của Cáp
trên và Nhân dân, vậy là làm cái san BTCT trên nền cọc đóng rồi dắp
đất lên trên thì khỏi phải chờ lún lâu. Tinh tiền ra so sánh thì cũng
là hợp lý vì tiết keeijm thời gian, nhiệm vụ chính trị cúng hoàn
thành. Mọi mặt đềy hay cả. Sau này đâu đau cung phát triển, trăm hoa
đua nở
– Rồi dần dần cải tiến thếm, tính toán theo cách này cách nọ tùy giả
thiết của mỗi kỹ sư, tiếc là chưa có ai tổng kết số liệu thí nghiệm.
Đôi khi cũng quá đà, làm cả móng cọc khoan nhồi đến D1000 mm. Nay thì
có sách báo tiếng Anh về Raft Foundation để tham khảo nữa.
– Chuyện còn dài dài, anh nào hứng thú làm cái Luận án cũng tốt đấy.
4- Về nghiên cứu của Bộ GTVT.
– Bộ GTVT đã cho tiền rồi, Đề tài nghiên cứu về Nối tiếp giữa cầu và
đường, từ năm 2009, nhưng mà chưa làm xong nên chưa có báo cáo.
Mùng 3 Tết mà viết dài quá rồi, bà con đọc cho rộng đường dư luận nhé,vui thôi mà.
Xin tạm biệt
NVT
Tóm tắt lại cho anh em dễ hiểu về kiến thức của thầy cho anh em dễ hiểu
- Bản quá độ (BQD)
- Xuất phát từ thuật ngữ tiếng Nga, phổ biến trong thiết kế cầu.
- Cấu tạo gồm một đầu gối cố định, một đầu gối đàn hồi.
- Chiều dài thay đổi từ 3m đến 6m, độ dày tăng từ 20cm lên 30-35cm.
- Thiết kế đơn giản hóa, nhiều kỹ sư không tính toán chi tiết.
- Bản giảm tải (BGT)
- Khác với BQD, thường ngàm cứng vào thân tường trước mố.
- Có thể sử dụng nhiều bản ở các cao độ khác nhau.
- Giúp giảm áp lực ngang và tăng ổn định cho tường mố.
- Ít được thiết kế tại Việt Nam.
- Sàn giảm tải
- Xuất hiện từ dự án Đường xuyên Á, nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công.
- Được thiết kế trên nền cọc đóng, giúp tiết kiệm thời gian lún.
- Các cải tiến và tính toán hiện nay chưa được tổng kết chính thức.
Bảng so sánh bản quá độ, bản giảm tải, sàn giảm tải
Thuật ngữ | Cấu tạo | Mục đích | Tình trạng sử dụng ở VN |
---|---|---|---|
Bản quá độ | 1 đầu gối cố định, 1 đầu gối đàn hồi | Giúp truyền tải trọng, giảm cong vênh | Phổ biến, nhưng chưa tối ưu |
Bản giảm tải | Ngàm cứng vào tường mố | Giảm áp lực ngang, tăng ổn định | Ít được sử dụng |
Sàn giảm tải | Trên nền cọc đóng | Tiết kiệm thời gian thi công | Được phát triển gần đây |
Bảng tính theo tiêu chuẩn hiện hành về bản quá độ, bản giảm tải
Bảng tính excel bản quá độ,bản giảm tải theo TCVN 11823-2017